Các phương pháp hô hấp nhân tạo,thủ thuật Heimlich,sơ cứu chấn thương không phải ai cũng biết.Nhưng các tai nạn như chết đuối,điện giật,bỏng...vẫn thường xuyên xảy ra và gây ra cái chết cho rất nhiều người,một phần cũng là do người thân chưa biết cách sơ cứu.Red thấy bên nước ngoài ,họ rất chú trọng đến việc dạy và thực hành các thủ thuật sơ cứu để hạn chế đến mức thấp nhất lượng người tử vong,việc này chả có gì là khó khăn cả nếu ta để ý một chút,anh em VVC học hết các cách sơ cứu ở trong này cũng là một cách nâng cao kỹ năng sống của mình và cũng để giúp đỡ mọi người trong những hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta hoàn toàn có thể giúp được.
A. NGẠT NƯỚC
Ngạt nước (còn gọi chết đuối) là tình trạng người bị nạn bị ngạt do hít phải nước khi chìm trong nước, tuy nhiên có một số người bị ngạt là do sự co thắt thanh quản.
Ngạt nước thường xảy ra ở 2 nhóm tuổi: tuổi thiếu niên do tính thích mạo hiểm và tuổi mới biết đi do tính tò mò, hiếu kỳ mà không có sự giám sát của người lớn.
1. Nguyên nhân gây ra ngạt nước là gì?
Ngạt nước xảy ra do các tai nạn như:
- Trẻ nhỏ bị chìm trong các vật chứa nước trong nhà như giếng nước, thùng nước, chậu nước, bồn tắm, bể cá…
- Trẻ không biết bơi bị rơi xuống ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Người biết bơi nhưng do bị kiệt sức, bị vộp bẻ, động kinh...
2. Sơ cứu đúng cách người bị ngạt nước như thế nào?
Sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn hay di chứng não của người bị nạn. Cần lưu ý là một người đã ngưng thở chỉ sống thêm được khoảng 5 phút, do vậy phải hành động thật nhanh và bằng mọi cách tiến hành hà hơi thổi ngạt cho người bị nạn càng sớm càng tốt. Tốt nhất là phải cấp cứu thổi ngạt ngay khi vừa đưa đầu người bị nạn lên khỏi mặt nước, trước khi đưa vào bờ.
* Cách sơ cứu đúng như sau:
- Nhanh chóng đưa người bị nạn ra khỏi mặt nước bằng cách đưa cánh tay, cây sào dài cho người bị nạn nắm, ném phao hoặc vớt người bị nạn lên.
- Đặt người bị nạn nằm chỗ khô ráo, thoáng khí.
- Nếu người bị nạn bất tỉnh hãy kiểm tra xem có còn thở hay không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực.
l Nếu lồng ngực không di động tức là người bị nạn đã ngưng thở, đầu tiên hãy thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau khi thổi ngạt mà người bị nạn vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như là tim của người bị nạn đã ngưng đập (riêng nhân viên y tế xác định tình trạng ngưng tim của người bị nạn bằng cách bắt mạch cánh tay, mạch cổ hoặc mạch bẹn xem có đập không, nếu không bắt được mạch tức là tim đã ngưng đập), cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:
+ Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay)
+ Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ lớn hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay
Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỉ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi hoặc người lớn). Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục các động tác cấp cứu này trên đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế cho đến khi người bị nạn tự thở lại được hoặc chắc chắn rằng người đó đã chết, việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn nữa.
l Nếu lồng ngực còn di động tức người bị nạn còn tự thở được, hãy đặt người bị nạn ở tư thế an toàn, tức là cho nằm nghiêng một bên để nếu người đó có nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi gây viêm phổi.
3. Những điều gì không nên làm trong sơ cứu người bị ngạt nước?
Phần lớn những người bị nạn tử vong hoặc bị di chứng não do thiếu oxy là do không được sơ cứu hay sơ cứu không đúng cách trước khi đưa đến cơ sở y tế. Do đó, cần tránh những cách xử trí không đúng sau đây:
- “Xóc nước”: động tác dốc ngược người bị nạn để sốc nước là không cần thiết và không nên thực hiện vì thông thường lượng nước vào phổi rất ít chứ không phải vào đầy phổi như người dân thường nghĩ. Lượng nước rất ít này sẽ được tống xuất ra ngoài khi người bị nạn tự thở lại. Ngoài ra việc sốc nước còn làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt và làm tăng nguy cơ hít sặc nước vào phổi.
- Không thực hiện việc thổi ngạt và ấn tim cho người bị nạn đang ngưng thở ngưng tim tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trong lúc vận chuyển tới cơ sở y tế, hoặc có thực hiện nhưng không đúng cách như: dang 2 tay người bị nạn sang 2 bên rồi ép vào ngực để ấn tim mà không thổi ngạt, động tác sơ cứu này không nên thực hiện vì không hiệu quả.
Việc chậm trễ trong cấp cứu thổi ngạt-ấn tim làm cho não và các cơ quan bị thiếu oxy kéo dài, có thể gây chết tế bào não dẫn đến tử vong hoặc di chứng não nặng nề.
- Hơ lửa hoặc “lăn lu” người bị nạn (tức là để nằm vắt ngang qua lu rồi đốt lửa phía trong lu) vì nghĩ rằng sẽ giúp làm ấm người bị nạn nhưng thực ra việc làm này sẽ càng làm nặng thêm tình trạng của người bị nạn vì làm họ bị phỏng và quan trọng nhất là làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt.
4. Phòng ngừa ngạt nước như thế nào?
- Không để trẻ nhỏ một mình ở nhà. Đậy kín các vật chứa nước trong nhà như giếng nước, bồn tắm, thùng nước, chậu nước...
- Không cho trẻ chơi một mình gần ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Không cho bệnh nhân động kinh bơi
- Dạy trẻ học bơi ngay từ khi còn bé. Dạy trẻ là không bao giờ được bơi ở những nơi có dòng nước chảy nhanh và mạnh.
A. NGẠT NƯỚC
Ngạt nước (còn gọi chết đuối) là tình trạng người bị nạn bị ngạt do hít phải nước khi chìm trong nước, tuy nhiên có một số người bị ngạt là do sự co thắt thanh quản.
Ngạt nước thường xảy ra ở 2 nhóm tuổi: tuổi thiếu niên do tính thích mạo hiểm và tuổi mới biết đi do tính tò mò, hiếu kỳ mà không có sự giám sát của người lớn.
1. Nguyên nhân gây ra ngạt nước là gì?
Ngạt nước xảy ra do các tai nạn như:
- Trẻ nhỏ bị chìm trong các vật chứa nước trong nhà như giếng nước, thùng nước, chậu nước, bồn tắm, bể cá…
- Trẻ không biết bơi bị rơi xuống ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Người biết bơi nhưng do bị kiệt sức, bị vộp bẻ, động kinh...
2. Sơ cứu đúng cách người bị ngạt nước như thế nào?
Sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn hay di chứng não của người bị nạn. Cần lưu ý là một người đã ngưng thở chỉ sống thêm được khoảng 5 phút, do vậy phải hành động thật nhanh và bằng mọi cách tiến hành hà hơi thổi ngạt cho người bị nạn càng sớm càng tốt. Tốt nhất là phải cấp cứu thổi ngạt ngay khi vừa đưa đầu người bị nạn lên khỏi mặt nước, trước khi đưa vào bờ.
* Cách sơ cứu đúng như sau:
- Nhanh chóng đưa người bị nạn ra khỏi mặt nước bằng cách đưa cánh tay, cây sào dài cho người bị nạn nắm, ném phao hoặc vớt người bị nạn lên.
- Đặt người bị nạn nằm chỗ khô ráo, thoáng khí.
- Nếu người bị nạn bất tỉnh hãy kiểm tra xem có còn thở hay không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực.
l Nếu lồng ngực không di động tức là người bị nạn đã ngưng thở, đầu tiên hãy thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau khi thổi ngạt mà người bị nạn vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như là tim của người bị nạn đã ngưng đập (riêng nhân viên y tế xác định tình trạng ngưng tim của người bị nạn bằng cách bắt mạch cánh tay, mạch cổ hoặc mạch bẹn xem có đập không, nếu không bắt được mạch tức là tim đã ngưng đập), cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:
+ Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay)
+ Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ lớn hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay
Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỉ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi hoặc người lớn). Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục các động tác cấp cứu này trên đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế cho đến khi người bị nạn tự thở lại được hoặc chắc chắn rằng người đó đã chết, việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn nữa.
l Nếu lồng ngực còn di động tức người bị nạn còn tự thở được, hãy đặt người bị nạn ở tư thế an toàn, tức là cho nằm nghiêng một bên để nếu người đó có nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi gây viêm phổi.
Đặt người bị nạn nằm nghiêng để tránh hít sặc chất nôn ói vào phổi.
3. Những điều gì không nên làm trong sơ cứu người bị ngạt nước?
Phần lớn những người bị nạn tử vong hoặc bị di chứng não do thiếu oxy là do không được sơ cứu hay sơ cứu không đúng cách trước khi đưa đến cơ sở y tế. Do đó, cần tránh những cách xử trí không đúng sau đây:
- “Xóc nước”: động tác dốc ngược người bị nạn để sốc nước là không cần thiết và không nên thực hiện vì thông thường lượng nước vào phổi rất ít chứ không phải vào đầy phổi như người dân thường nghĩ. Lượng nước rất ít này sẽ được tống xuất ra ngoài khi người bị nạn tự thở lại. Ngoài ra việc sốc nước còn làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt và làm tăng nguy cơ hít sặc nước vào phổi.
- Không thực hiện việc thổi ngạt và ấn tim cho người bị nạn đang ngưng thở ngưng tim tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trong lúc vận chuyển tới cơ sở y tế, hoặc có thực hiện nhưng không đúng cách như: dang 2 tay người bị nạn sang 2 bên rồi ép vào ngực để ấn tim mà không thổi ngạt, động tác sơ cứu này không nên thực hiện vì không hiệu quả.
Việc chậm trễ trong cấp cứu thổi ngạt-ấn tim làm cho não và các cơ quan bị thiếu oxy kéo dài, có thể gây chết tế bào não dẫn đến tử vong hoặc di chứng não nặng nề.
- Hơ lửa hoặc “lăn lu” người bị nạn (tức là để nằm vắt ngang qua lu rồi đốt lửa phía trong lu) vì nghĩ rằng sẽ giúp làm ấm người bị nạn nhưng thực ra việc làm này sẽ càng làm nặng thêm tình trạng của người bị nạn vì làm họ bị phỏng và quan trọng nhất là làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt.
4. Phòng ngừa ngạt nước như thế nào?
- Không để trẻ nhỏ một mình ở nhà. Đậy kín các vật chứa nước trong nhà như giếng nước, bồn tắm, thùng nước, chậu nước...
- Không cho trẻ chơi một mình gần ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Không cho bệnh nhân động kinh bơi
- Dạy trẻ học bơi ngay từ khi còn bé. Dạy trẻ là không bao giờ được bơi ở những nơi có dòng nước chảy nhanh và mạnh.
Relate Threads