Nhà thuốc Hồng Đức
Tiểu thương mới
- Tham gia
- 5 Tháng tư 2024
- Bài viết
- 52
- Điểm tương tác
- 0
Ung thư phổi đã trở thành một trong những căn bệnh đáng sợ nhất, với tỷ lệ chẩn đoán cao trên toàn cầu và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Nhờ sự tiến bộ trong lĩnh vực y học, ngày nay đã có nhiều phương pháp điều trị mới được áp dụng, giúp cải thiện triển vọng sống cho những bệnh nhân. Trong số đó, điều trị trúng đích đang trở thành một phương pháp quan trọng trong việc chăm sóc cho những người mắc ung thư phổi.
FDA đã chấp thuận sử dụng hai loại thuốc kháng thể đơn dòng cho bệnh ung thư phổi, đó là Bevacizumab (Avastin) và Ramucirumab (Cyramza). Những loại thuốc này ngăn chặn việc tạo ra các mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u ung thư.
Bevacizumab, thương hiệu Avastin, là một loại kháng thể nhân tạo (IgG1), hoạt động bằng cách ngăn chặn một loại protein nhất định, từ đó làm giảm lưu lượng máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u và làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư ác tính. Nó được tiêm vào tĩnh mạch với hàm lượng 4 ml (100 mg/4 ml) và 16 ml (400 mg/16 ml).
Ramucirumab, thương hiệu Cyramza, là một loại thuốc điều trị ung thư chứa thành phần chính là ramucirumab. Nó hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu cung cấp oxy và dinh dưỡng cho tế bào ung thư, từ đó làm giảm kích thước và tăng sinh của khối u.
Điều trị bước đầu cho ung thư phổi không tế bào nhỏ với đột biến EGFR(+) đã được chấp thuận sử dụng các loại thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI) đích trúng phân tử EGFR, bao gồm Gefitinib, Erlotinib và Afatinib. Cả ba loại thuốc này đã được chứng minh tăng tiên lượng và hiệu quả qua các thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra, Dacomitinib và Osimertinib cũng là hai loại thuốc được sử dụng để ức chế hoạt động tyrosine kinase của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì.
Gefitinib, còn được biết đến với tên thương hiệu Iressa, là loại thuốc được sử dụng cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến triển hoặc di căn. Nó ức chế chọn lọc tyrosine kinase, một loại protein ức chế hình thành mạch máu và làm chậm sự phát triển và giảm kích thước của tế bào ung thư.
Erlotinib, chứa thành phần chính là Erlotinib hydrochloride, là một loại thuốc ức chế kinase, giảm sự gia tăng của tế bào ung thư và làm chậm sự phát triển của chúng, giúp ngăn chặn sự tiến triển của ung thư phổi.
Afatinib cũng là một loại thuốc được sử dụng để điều trị ung thư phổi, ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư bằng cách chặn tyrosine kinase trong chúng.
Dacomitinib tăng ức chế miền kinase của EGFR và giảm phosphoryl hóa cùng khả năng sống của tế bào, được sử dụng cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến triển hoặc đã di căn.
Osimertinib, là chất ức chế tyrosine kinase thụ thể (EGFR), được sử dụng để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ ở người lớn.
Một số loại thuốc ức chế đột biến ALK bao gồm:
Một số loại thuốc dùng trong điều trị đích trong ung thư phổi
Kháng thể đơn dòng
Cơ thể của chúng ta tự sản xuất các kháng thể để chống lại các tế bào đột biến. Nhưng các phiên bản nhân tạo này hoạt động giống như các kháng thể tự nhiên, nhưng chúng nhằm vào các tế bào ung thư. Thuốc kháng thể đơn dòng tác động trên các thụ thể ở bề mặt của tế bào.FDA đã chấp thuận sử dụng hai loại thuốc kháng thể đơn dòng cho bệnh ung thư phổi, đó là Bevacizumab (Avastin) và Ramucirumab (Cyramza). Những loại thuốc này ngăn chặn việc tạo ra các mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u ung thư.
Bevacizumab, thương hiệu Avastin, là một loại kháng thể nhân tạo (IgG1), hoạt động bằng cách ngăn chặn một loại protein nhất định, từ đó làm giảm lưu lượng máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u và làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư ác tính. Nó được tiêm vào tĩnh mạch với hàm lượng 4 ml (100 mg/4 ml) và 16 ml (400 mg/16 ml).
Ramucirumab, thương hiệu Cyramza, là một loại thuốc điều trị ung thư chứa thành phần chính là ramucirumab. Nó hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu cung cấp oxy và dinh dưỡng cho tế bào ung thư, từ đó làm giảm kích thước và tăng sinh của khối u.
Các thuốc trọng lượng phân tử nhỏ
Thuốc trọng lượng phân tử nhỏ có khả năng xâm nhập vào tế bào một cách dễ dàng do trọng lượng phân tử của chúng thấp. Khi tiếp xúc với tế bào, chúng có thể tác động lên các phân tử khác như protein, gây tổn thương và dẫn đến tử vong của tế bào ung thư. Cơ chế này khác biệt hoàn toàn so với các loại thuốc có trọng lượng phân tử lớn, vì chúng không thể dễ dàng xâm nhập vào bên trong tế bào.Thuốc cho đột biến gen EGFR
Các chất ức chế EGFR có thể giúp ngăn chặn sự lây lan của tế bào ung thư ở người mắc ung thư phổi EGFR M+ và có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.Điều trị bước đầu cho ung thư phổi không tế bào nhỏ với đột biến EGFR(+) đã được chấp thuận sử dụng các loại thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI) đích trúng phân tử EGFR, bao gồm Gefitinib, Erlotinib và Afatinib. Cả ba loại thuốc này đã được chứng minh tăng tiên lượng và hiệu quả qua các thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra, Dacomitinib và Osimertinib cũng là hai loại thuốc được sử dụng để ức chế hoạt động tyrosine kinase của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì.
Gefitinib, còn được biết đến với tên thương hiệu Iressa, là loại thuốc được sử dụng cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến triển hoặc di căn. Nó ức chế chọn lọc tyrosine kinase, một loại protein ức chế hình thành mạch máu và làm chậm sự phát triển và giảm kích thước của tế bào ung thư.
Erlotinib, chứa thành phần chính là Erlotinib hydrochloride, là một loại thuốc ức chế kinase, giảm sự gia tăng của tế bào ung thư và làm chậm sự phát triển của chúng, giúp ngăn chặn sự tiến triển của ung thư phổi.
Afatinib cũng là một loại thuốc được sử dụng để điều trị ung thư phổi, ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư bằng cách chặn tyrosine kinase trong chúng.
Dacomitinib tăng ức chế miền kinase của EGFR và giảm phosphoryl hóa cùng khả năng sống của tế bào, được sử dụng cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến triển hoặc đã di căn.
Osimertinib, là chất ức chế tyrosine kinase thụ thể (EGFR), được sử dụng để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ ở người lớn.
Thuốc cho dạng đột biến gen khác
Ngoài ra, còn có một loại đột biến khác được gọi là đột biến ALK (anaplastic lymphoma kinase). Ban đầu, đột biến này được phát hiện trong ung thư hạch bạch huyết, nhưng phần lớn ung thư dương tính với ALK thường xuất hiện trong ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. Gen ALK tồn tại trong cơ thể từ khi ta còn là phôi thai, giúp phát triển đường ruột và hệ thống thần kinh. Tuy nhiên, gen này không hoạt động trong thời kỳ thai nghén. Sự thay đổi gen gọi là sự dung hợp ALK hoặc sắp xếp lại ALK có thể dẫn đến ung thư phổi.Một số loại thuốc ức chế đột biến ALK bao gồm:
- Alectinib, có tên thương hiệu là Alecensa, chứa thành phần Alectinib. Đây là loại thuốc được sử dụng trong điều trị ung thư phổi giai đoạn muộn tiến triển hoặc đã di căn có đột biến ALK.
- Crizotinib, được biết đến với tên thương hiệu Xalkori, chứa thành phần chính là Crizotinib. Thuốc hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu và ức chế thụ thể tế bào ung thư có đột biến ALK. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng cho người mắc ung thư có đột biến gen ROS1.
- Lorlatinib, có tên thương hiệu là Lorbrena, chứa hoạt chất Lorlatinib. Tương tự như Crizotinib, Lorlatinib cũng hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu và ức chế thụ thể trên tế bào ung thư có đột biến ALK. Bằng cách ức chế ALK, thuốc này làm chậm và ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư.
Relate Threads